Đề bài:
Em hãy viết bài văn bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Bài làm:
Hàn Mặc Tử là một gương mặt thơ kì lạ và kì diệu, có cuộc sống ngắn ngủi đầy đau thương, bất hạnh. Là người rất yêu đời, yêu cuộc sống nhưng tiếc thay, tạo hóa lại quá bất công với số phận của thi nhân. Vì thế mà những mối tình trong thơ ông dù đẹp đẽ, nồng thắm đến đâu thì cuối cùng cũng chia lìa, tan vỡ.
Sau khi lâm trọng bệnh, biết rằng chẳng khi nào còn được sum vầy với người mình yêu nên thi sĩ thường miêu tả cảnh gặp gỡ, nhớ nhung trong những giấc chiêm bao. Vì tiếp tục bị cái chết ám ảnh nên ông hay nói đến sự vĩnh biệt, cõi hư vô. Ông thích đêm hôm, sương mù, trăng sao … là những cảnh hợp với tâm trạng ảm đạm, thê lương. Nỗi đau thể xác khiến Hàn Mặc Tử nhiều khi như điên như dại nhưng cũng có lúc nó nâng thần trí ông lên đến đỉnh điểm của tưởng tượng huyễn hoặc, đưa ông vào quốc tế tràn trề âm thanh, ánh sáng, sắc màu. Trong cõi riêng ấy, ông thỏa sức bộc lộ niềm đam mê khao khát tình yêu và đời sống tươi đẹp vĩnh hằng .Thơ Hàn Mặc Tử thường có những bước nhảy bất ngờ đột ngột về ý. Ý nọ cách ý kia một khoảng chừng lớn, có lúc tưởng chừng như không link gì với nhau nhưng thực ra lại gắn bó rất ngặt nghèo ở những trạng thái của cảm hứng. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một ví dụ .Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng, được coi là viên ngọc quý trong thơ ca Nước Ta. Bài thơ bộc lộ lòng yêu đời, yêu đời sống mãnh liệt của thi sĩ, biểu lộ qua tình cảm thiết tha so với cảnh vật và con người. Dẫu có thoáng nét ngậm ngủi và sự chia lìa, tan vỡ của tình yêu tuy nhiên cảm hứng ấy đã thăng hoa, làm giàu thêm đời sông tình cảm của con người. Có thể coi bài thơ là lời tỏ tình với cuộc sống của một trái tim yêu thương và luôn luôn kỳ vọng .Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước mong một ngày nào đó dược trở lại thăm cảnh cũ người xưa .Khổ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo : gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay … trong khoảng trống quạnh vắng, vắng ngắt. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa. Khung cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu. Khổ thứ ba nói về hình ảnh khách đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Dẫu có hình ảnh của khách đường xa, áo trắng … nhưng tổng thể đều nhạt nhòa, vô định như một mối tình vừa mới định hình đã vội hóa thành hư vô, đọng lại trong lòng người một nỗi không tin, hy vọng .Âm điệu chủ yếu của bài thơ dựa trên ba câu tự vấn đầy do dự, khắc khoải. Câu hỏi thứ nhất : Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? mang nhiều sắc thái như : vừa hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Tác giả đang phân vân tự hỏi về một việc đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn thời cơ để thực thi nữa không. Đó là về lại thôn Vĩ, nơi mình từng lui tới hồi còn là học viên trường Pellerin ở Huế. Sự phân vân và những sắc thái tâm trạng khác nhau xen kẽ trong cùng một câu hỏi cho ta thấy nỗi ước ao trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa u uẩn, không dễ gì bày tỏ. Nghĩa là ao ước đấy, tuy nhiên cũng đầy mặc cảm về năng lực thực thi ao ước của mình .Câu hỏi thứ hai : Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay ? biểu lộ sự do dự, khắc khoải và hy vọng mong manh trong tâm trạng thi sĩ .Câu hỏi thứ ba : Ai biết tình ai có đậm đà ? chất chứa một mối không tin .Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo khunh hướng : ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mơ tưởng không tin. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại link với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn hảo có vẻ như đẹp khác thường .
Câu thơ mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Nó có thể là lời mời mọc dưới dạng hờn trách nhẹ nhàng, rất đáng yêu của một cô gái Huế. Nếu vậy thì phải nghe câu thơ ấy cất lên bằng chính cái giọng Huế ấm áp, ngân nga, ta mới cảm nhận được hết vị dịu ngọt đến nao lòng của nó. Hiểu cách khác, nó là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ lòng tự hỏi lòng: Liệu có còn dịp nào mình được về thăm thôn Vĩ mảnh đất gắn bó với bao kỉ niệm dấu yêu của mối tình đầu? Tự hỏi cũng là để nhắc nhỏ mình và kín đáo lồng vào trong đó nỗi khát khao, nhung nhớ.
Ba câu sau tả vẻ đẹp vườn cây thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Bức tranh chỉ đơn sơ vài nét chấm phá nhưng sinh động và rực rỡ vô cùng ! Đây là cảnh hiện ra trong cõi nhớ nên vẻ đẹp của nó trở nên lộng lẫy gấp bội. Mỗi câu thơ tả một cảnh vườn. Ánh nắng ban mai trong trẻo, tinh khiết phơn phớt hồng trên những tán cau xanh cao ráo, in dáng trên nền trời buổi bình minh. Thi sĩ miêu tả hàng cau trước nhất bởi đó là hình ảnh điển hình nổi bật, là điểm nhấn của bức tranh cảnh sắc rất ấn tượng. Tưởng như hàng cau kia đang thay ai ngóng đợi người về. Hình ảnh hàng cau gợi trong ta một nỗi niềm làng mạc, quê nhà thâm thúy .Câu thơ tiếp theo thề hiện cảm hứng ngỡ ngàng và thán phục của nhà thơ trước vẻ đẹp tràn trề sức sống của khu vườn : vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Đây cũng là lời nhận xét chân tình thốt lên tự đáy lòng thi sĩ. Thi sĩ không tả đơn cử cảnh vườn mà chỉ nhắc tới sắc xanh của lá. Mướt là màu xanh mỡ màng, non tươi, phơi phới xuân thì, nhìn mát mắt và mát tận tâm hồn. Từ quá chỉ mức độ làm tăng thêm năng lực gợi tả của câu thơ. Cái sắc nắng mới lên rọi xuống những vòm lá còn ướt sương đêm khiến cho màu xanh của lá ánh lên như ngọc. Vườn cây thôn Vĩ như một viên ngọc bích khổng lồ rời rợi sắc xanh, tỏa vào khoảng trống và lòng người cái sắc màu điệu đàng lạ lùng ! Tất cả đều rạo rực, tràn trề sức sống. Tưởng chừng như nghe thấy được cả tiếng của nhựa sống đang chuyển lên cành tơ, lá nõn. Trước cảnh vạn vật thiên nhiên tuyệt vời ấy, tâm hồn con người cũng rạo rực, vui mừng .Câu thơ thứ tư là nét vẽ thân tình tô đậm vẻ e ấp, dịu dàng êm ả rất đáng yêu của người con gái Huế : Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền phúc hậu. ở đây, ta thấy sự tinh xảo của ngòi bút Hàn Mặc Tử khi tả cảnh, tả người : Lá trúc che ngang làm tăng thêm vẻ duyên dáng của gương mặt chữ điền. Với câu thơ này, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ được thần thái của thôn Vĩ : cảnh tươi đẹp và con người duyên dáng. Thiên nhiên và con người hòa giải với nhau tạo thành vẻ đẹp đặc trưng của Huế .Bức tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng thi sĩ. Trên cái nền cảnh sắc đầy hương sắc ấy có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui như thấm vào vạn vật. Thoảng đâu đây tiếng rỉ tai mơ hồ xao xuyến của tình yêu .Khổ thơ thứ hai vẫn liên tục tả cảnh nhưng phần đông không ăn nhập gì với khung cảnh vui tươi ở khổ thơ đầu. Cảm xúc thơ chợt lắng xuống, đượm buồn. Linh cảm chia lìa hiện ra trong từng câu, từng chữ và từng hình ảnh :
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Thông thường thì gió thổi, mây bay theo cùng một hướng. Còn ở đây, gió, mây đôi ngả. Gió ở cây lá, còn mây lãng đãng tận trên cao. Ngẫu nhiên chăng hay dụng ý? Câu thơ ngắt làm đôi. Gió đóng khung trong gió (Gió theo lối gió), mây cuộn trong mây (mây đường mây). Mạch thơ chợt như đứt đoạn. Có cái gì đó xót xa, nghẹn ngào, hụt hẫng trong cảm xúc của nhà thơ.
Ở Vĩ Dạ, bước ra sau vườn đã là bến nước với dăm ba bậc dẫn xuống sông. Dòng nước sông Hương lặng lẽ, im lìm, buồn thiu như không muốn trôi. Hoa bắp ( ngô ) vật vờ, lắt lay trong gió nhẹ. Đâu đâu cũng đượm một nỗi buồn .Khung cảnh thật vậy chăng ? Đúng vậy ! Trên kia thật mà ở đây cũng thật, bởi tươi tắn hay ủ ê cũng đều là Huế cả. vườn tươi sớm mai, sông ủ buổi chiều. Nỗi buồn phơn phớt, nhè nhẹ mà thấm tận đáy lòng. Nét trầm tư không nơi nào có được ấy là đặc trưng của Huế. Bức tranh phong cảnh thứ hai này có đủ gió thổi, mây bay, dòng nước trôi, hoa bắp lay … mà sao im re đến lãnh đạm. Đường như tổng thể đang phai nhạt dần sự sống, đang bị vây bọc trong một mối sầu thương. Sự ngang trái, trớ trêu chứa đựng trong cảnh vật hay vui buồn là do con mắt nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ ? Nỗi buồn của vạn vật thiên nhiên có tương quan gì đến nỗi buồn của con người hay không ?Trở lại mối tình của thi sĩ với cô gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình ấy tuy xinh xắn nhưng vô vọng. Duyên kiếp của đôi trai gái này là duyên kiếp lỡ làng, không hề chung đôi, chung đời được. Vì vậy nỗi buồn trong lòng người như lan cả vào cỏ cây, mây nước ; khiến cho dòng nước buồn thiu và hoa bắp cũng vật vờ, lay lắt, lảo đảo bên dòng nước im lìm. Dòng nước buồn thiu tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi sầu chia lìa, li biệt của gió với mây đã lây buồn tới dòng sông ? !Lạ nhất là động từ lay vốn là một từ tả thực không mang ý nghĩa vui hay buồn, vậy mà sao đặt vào trong câu thơ này, nó lại gợi cảm xúc buồn đến vậy ? Nó phụ họa với nỗi buồn chia cắt của gió, mây, của dòng nước buồn thiu như chẳng còn sức sống .Trong cái xu thế đang chảy trôi, chia lìa mỗi lúc mỗi xa ấy, thi sĩ chợt ước ao có được một thứ ngược dòng về với mình, đó là trăng :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Nhà thơ nhìn thấy hay tưởng tượng trong kí ức cảnh những con thuyền khoan thai, bồng bềnh trên mặt nước sông Hương lấp lánh lung linh ánh trăng ? ! Sự phân vân đoán định trong từ nghi vấn thuyền ai càng làm tăng thêm vẻ mơ hồ, huyển ảo cho cảnh vật và đặc tả một hồn thơ đang rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp hữu tình của Huế .Nhà thơ ao ước thuyền chở trăng về như mong một tri âm tri ki đến với mình. Dòng nước hóa thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan ra thành nước ? ! Thuyền chở trăng về cập bến thời hạn huyền ảo. Song, đó chi là bề nổi của ý thơ. Có một chữ tâu nay bị bỏ quên bởi lẽ nó khiêm nhường, không cầu kì hoa mĩ nhưng lại mang nhiều sắc thái tu từ, ấy là chữ lập. Chữ kịp tiềm ẩn thảm kịch của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh tâm trạng khắc khoải đợi trông cùng chút hy vọng mong manh của nhà thơ đang chơi vơi trên bờ vực của đau thương, vô vọng. Chữ kịp cho ta thấy cảm nhận của thi sĩ về hiện tại ngắn ngủi và hé mở một khao khát sống cháy bỏng, muốn giao hòa, san sẻ tâm sự với mọi người. Thi sĩ muốn níu kéo sự sống và chạy đua với thời hạn .Thuyền em đang đậu ở bến sông trăng như đời em sáng láng đầy xuân tươi, có chở trăng về kịp tối nay cho lòng anh vui lên một chút ít ! Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết. Tha thiết mà mong manh. Càng mong manh lại càng tha thiết .Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương trong đêm trăng là chuyện thông thường, nhưng bến sông trăng thì chi có trong thơ Hàn Mặc Tử. Thuyền chở trăng về kịp tối nay thì cuộc hẹn hò sẽ toàn vẹn. Có rượu, có trăng, có những người yêu nhau thì đời đẹp biết bao ! Bù lại cảnh tượng ngăn cách, buồn bã ở hai câu trên, đây là hy vọng của cuộc gặp gỡ hòa hợp mát lành, mặc dầu hy vọng ấy cũng chẳng khác chi sương khói .Có chở trăng về kịp tối nay là câu thơ của cõi mộng. Đến đây, nhà thơ không nhìn ra cảnh vật nữa mà nhìn vào chính lòng mình. Quỹ thời hạn đang vơi đi từng ngày, từng khắc, cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Thi sĩ rơi vào cõi đau thương, vô vọng .Bốn câu thơ khổ này là bức tranh tâm cảnh. Gió, mây chia đường, bạn tình rẽ đôi. Buồn đến cả dòng sông, ngọn bắp. Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng ? Hãy chở trăng vê kịp tối nay để ta gặp nhau lần cuối. Nhưng đó chỉ là ước mong, dẫu chân thành tha thiết mà mờ ảo, mông lung .Nếu ở khổ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ là khắc khoải, đợi mong và bồn chồn hy vọng thì đến đoạn này, khi thả hồn mơ khách đường xa, nhà thơ mới thấy nỗi niềm chia lìa da diết hơn, thấm thìa hơn. Nhà thơ lặng đi trong cõi mộng. Hình ảnh cô gái Huế rất là thân thiện nhưng cũng rất là xa vời. Xa vời về thời hạn, khoảng trống và nhà thơ linh cảm thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng đã thành hư ảo. Gâu thơ trên đương còn là mơ, câu dưới đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những bài thơ tình khác …Lời thơ ở hai câu này nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng và tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai !
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và giờ đây đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Hình ảnh này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên .Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ như đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu dấu. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng. Tác giả tưởng tượng trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho nên vì thế nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và giật mình : Áo em trắng quá nhìn không ra. Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư nguyện vọng, tình cảm của thi nhân. Bài thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có phần tội nghiệp :
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Hai câu thờ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ nhân ảnh không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng.
Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả Đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền Cũng chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về … Chỉ còn sương khói che khuất bóng người .Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn do dự, khắc khoải : Ai biết tình ai có đậm đà ?Hai khổ thơ đầu nói đến cái đẹp của xứ Huế, khổ cuối nói vẻ đẹp của cô gái Huế. Tả cảnh đẹp xứ Huế, Hàn Mặc Tử đắm say đến mức hòa nhập vào cảnh. Nói đến vẻ đẹp của cô gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt mờ sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút thiếu tín nhiệm mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc sống : Ai biết tình ai có đậm đà ? Nhà thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chi Ai để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ : Làm sao biết được tình người con gái thôn Vĩ có đậm đà không ? Hay cũng mờ ảo, chóng tan như làn sương khói kia ? Người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ so với cảnh vật Huế, con người Huế rất là thắm thiết, đậm đà ? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chi làm tăng thêm nỗi đơn độc, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc sống .