nhân loĐúngtôi đã và đangtrì trệngười kháckhông bán đượcN,thành phốuhBạn thật tuyệtCái gì?NCủtôi đã được sinh raChúa ơic Nói chung và di truyềnĐúngnhChúa ơiĐặc biệt c. Đúngsự mong muốnbCái gì?tkChúa ơi Ai quan tâmkhông bán đượcSinhChúa ơiTốt hay xấuĐúngeuhchChúa ơiQuần quèrất tiếcTôi phảiBỏ phiếu Thông tinĐúngbạnCái gì? Dkhông bán đượcn Gregor Johann Mendel, ÔngBỏ phiếu củMột nghề nghiệp trong di truyền họcĐúngnhChúa ơic. Quy tắcCái gì?dòng DĐúngNCủmột anh ấy đã và đang là nĐúngntcô ấycho ngành công nghiệpe SinhChúa ơic Hôm nay.
đọc thêm:
Công việc của Mendel trong sinh học đã được so sánh với công việc của Newton trong vật lý. Nhưng vào thời của ông, người ta chưa nhận thức được tầm quan trọng và giá trị to lớn mà những công trình nghiên cứu và học hỏi của Mendel mang lại cho trái đất. Trong mắt công chúng lúc bấy giờ, ông là một nhà tu khổ hạnh vô danh, một nhà khoa học nghiệp dư. Nhưng những quan điểm sai lầm của giới khoa học lúc bấy giờ không ngăn được Mendel tìm tòi, nghiên cứu. Anh vẫn âm thầm tìm tòi, mày mò như một lẽ tất yếu với bản thân.
Năm 18 tuổi, Mendel tốt nghiệp trung học và được cử đi học triết học. Ba năm sau, gia đình rất nghèo và anh xin việc tại tu viện Augustinian ở Brunn (Brno, Cộng hòa Séc ngày nay), điều này buộc anh phải bỏ dở việc học.
Năm 1847, Mendel được nhà thờ bổ nhiệm làm giáo sĩ, và hai năm sau, ông được bổ nhiệm dạy toán và tiếng Hy Lạp tại tu viện. Năm 1851, ông trở lại Đại học Vienna để nghiên cứu toán học, vật lý, hóa học, động vật học và thực vật học. Năm 1853, sau khi tốt nghiệp, Mendel về sống tại tu viện Augustinô và giảng dạy tại trường cao đẳng đào tạo của thành phố.
Với tài năng trời phú và kiến thức vững chắc về khoa học, Mendel đã cống hiến hết mình cho việc tìm hiểu và nghiên cứu. Lĩnh vực ông đặc biệt quan tâm và dành nhiều thời gian tìm hiểu, nghiên cứu là khoa học sinh học.
Năm 1856, ông bắt đầu thử nghiệm rộng rãi trên đậu Hà Lan. Mendel đã phát hiện ra rằng cây đậu Hà Lan có một cấu trúc hoa đặc biệt quan trọng để bảo vệ phấn hoa không thoát ra khỏi bao phấn. Vì vậy, nên để hoa tự thụ phấn hoặc thụ phấn cho hoa khác sẽ thuận tiện và an toàn hơn, cho biết đúng phẩm chất của cây bố, cây mẹ.
Các bài kiểm tra của ông vừa mang tính chất thực nghiệm vừa mang tính chất toán học. Mendel sử dụng 7 cặp tính trạng để tạo ra các phép lai: hạt trơn – hạt lép, hạt vàng – hạt xanh, hoa đỏ – hoa trắng, hoa ở nách – hoa trên, hoa dài – hoa có cuống trơn, quả mềm – quả teo, quả xanh – quả vàng Dựa trên kết quả của các phép lai nói trên, ông đã đề xuất ba quy luật cơ bản của di truyền học.
Luật ưu tiên là Luật thống trị. Trong khi bố mẹ ở thế hệ thuần chủng (P) khác nhau về một cặp tính trạng lặn, nhìn chung con lai ở thế hệ F1 chỉ biểu hiện một số ít tính trạng của bố mẹ, một tính trạng được gọi là tính trạng lặn.
Định luật thứ hai là định luật phân chia tài sản. Để xác nhận sự phân ly, Mendel đã thực hiện hai thí nghiệm. Một, các cá thể F1 dị hợp tử tự thụ phấn; Thứ hai là lai F1 với bố mẹ có kiểu hình lặn. Phép lai này hoạt động: trong khi các cây F1 tự thụ phấn hoặc thụ phấn chéo thì F2 bao gồm các cây “trội” và “lặn” theo tỷ lệ 3 trội (3T) + 1 lặn. 1L).
Định luật thứ ba là quy luật phân li độc lập của các cặp tính trạng. Mendel phát hiện ra rằng khi hai cây thuần chủng khác nhau về hai hay nhiều cặp tính trạng tương phản thì sự di truyền của một cặp tính trạng không phụ thuộc vào sự di truyền của cặp tính trạng kia.
Trong 8 năm (1856-1863), Mendel đã tiến hành thí nghiệm với khoảng 37.000 cây đậu Hà Lan và 300.000 cây đậu Hà Lan. Ông chỉ ra rằng tính di truyền là do tác nhân di truyền (ngày nay gọi là gen). Năm 1865, Mendel chứng minh hiệu ứng này tại Hiệp hội Khoa học Tự nhiên của Brunn, và một năm sau đó, các hiệu ứng di truyền đã được công bố trên tạp chí của Hiệp hội với tựa đề “Một số thí nghiệm lai thực vật”. Nhưng vào thời điểm đó, mọi người đều cho rằng các giả thuyết di truyền học đương đại quá phức tạp, trong khi thí nghiệm của Mendel lại “quá đơn giản và giản đơn”. Kết quả là công việc nghiên cứu và điều tra của ông chìm trong quên lãng.
|
Mặc dù vậy, ông vẫn dấn thân vào công việc giảng dạy và truyền đạo, đồng thời tiếp tục thử nghiệm trong khu vườn của tu viện. Năm 1868, Mendel trở thành tổng giám mục và năm 1879 được bổ nhiệm làm giám đốc tu viện. Ông là người sáng lập Hiệp hội Nghiên cứu Tự nhiên và Hiệp hội Khí tượng Brunn.
Ngày 6 tháng 1 năm 1884, Mendel qua đời ở tuổi 62 tại Brno, Cộng hòa Séc. Mãi 6 năm sau khi Mendel qua đời, thế giới mới biết đến những công trình nghiên cứu quý báu của Mendel vào năm 1900, thông qua những nghiên cứu, khảo sát độc lập nhưng đồng thời của 3 nhà khoa học ở 3 tỉnh thành khác nhau: Hugo Marie de Vries ở Hà Lan, Karl Korns ở Đức và Erich Chermark ở Áo.
Mặc dù những công trình nghiên cứu về di truyền học của Mendel sau này đã được công nhận nhưng các nhà khoa học ngày nay vẫn coi năm 1900 là “mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời của di truyền học” và Mendel vẫn là “cha đẻ của di truyền học”.
![]() |
Một mẫu tem bưu chính với nhà sinh vật học Mendel
Hơn một thế kỷ sau, di truyền học đã có một bước tiến quan trọng, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật di truyền, kỹ thuật y học đã đưa sinh học trở thành một trong những mũi nhọn của khoa học hiện đại.
Kỹ thuật nhân bản vô tính của Wilmut đã dẫn đến việc tạo ra dê Dolly (1997), thành công của Dự án giải mã bộ gen người (2001) và gần đây là việc sử dụng tế bào gốc để kiểm soát mong muốn. Nhiều bệnh hiểm nghèo đã được điều trị.
Tất cả bắt đầu cách đây gần 160 năm với các thí nghiệm nhân giống đậu của Gregor Mendel.