– Xử lý tranh luận bằng lời lẽ phù hợp với lý lẽ và tôn trọng sự thật.
– một hoạt động có quy tắc chặt chẽ về động tác, trình tự kỹ thuật và yêu cầu kỹ thuật để thuyết phục người khác chấp nhận quan điểm thảo luận về một hiện tượng lạ hoặc một yếu tố nào đó. Yêu cầu kỹ thuật.
Phần II
Video hướng dẫn giải
II – Một Số Hoạt Động Thảo Luận Cụ Thể
1. Ôn tập các thao tác phân tích, tổng hợp, suy luận, quy nạp
MỘT. Nhớ điền đúng định nghĩa các phép toán: phân tích, tổng hợp, suy luận, quy nạp theo các câu đã cho, điền đúng thứ tự: Tổng hợp, Phân tích, Quy nạp, Diễn giải.
b. Trong lời tựa của đoạn trích trong tuyển tập, Hoàng Đức Lương đánh giá và nhận xét: “Vì nhiều lý do, bài thơ chưa được phổ biến khắp thế giới”. Sau đó, ông giải thích bốn lý do. Bạn có nghĩ rằng tác giả sử dụng nghiên cứu và phân tích hoặc giải thích? Tại sao? Việc sử dụng khấu trừ như vậy (hoặc nghiên cứu và phân tích) là gì?
– Tác giả dùng phương pháp nghiên cứu và phân tích chứ không phải giải thích, vì ở đây tác giả chia các yếu tố được xem xét thành 4 lĩnh vực chứ không phải từ một tiền đề chung để giải thích các sự vật, sự việc lạ.
– Việc tác giả sử dụng bút pháp tìm tòi, phân tích có tác dụng chia nhỏ một bài tường thuật, đánh giá thành các khía cạnh, từ đó làm rõ nguyên nhân khiến thơ không lưu truyền trong đời sống.
c. Dựa vào kết quả tìm hiểu và khám phá trên, hãy nhận xét về cách sử dụng biện pháp tu từ của Thân Nhân Trung trong bài Nhâm Tuất khoa Đệ tam tài bảo. .
– Từ câu thứ nhất đến câu thứ hai, tác giả dùng sự nghiên cứu, phân tích để xem xét hai mặt của mối quan hệ giữa hiền tài và thế nước.
– Từ hai câu đầu đến câu thứ ba, tác giả chuyển từ tìm tòi, phân tích sang lí giải. Tác giả dựa vào vấn đề: “Hiệu tài là quốc sách” và khẳng định rằng: phải coi trọng nguyên tắc phát triển, bồi dưỡng và phát triển nhân tài.
e. Những kết luận của Hoàng Đức Lương (xem câu c SGK trang 132) mang tính chất tổng hợp hoặc quy nạp. Đọc đoạn văn (SGK) và cho biết tác giả dùng phương pháp tổng hợp hay quy nạp? Tại sao?
– Dẫn chứng từ lời tựa của tuyển tập các đoạn trích thơ: tác giả sử dụng chức năng tổng hợp để tóm tắt các ý từng phần thành một kết luận chung, và kết luận bao gồm đầy đủ sức nặng của các luận điểm riêng lẻ.
– Dẫn chứng từ bài Hịch tướng sĩ: Tác giả sử dụng thao tác quy nạp. Nhiều bằng chứng khác nhau được sử dụng để kết luận rằng “từ ngàn xưa, các tín đồ và liệt sĩ đã xả thân vì nước”. ” trở nên đáng tin, mạnh dạn và thuyết phục hơn so với người nghe (người đọc) về mặt trí tuệ và cảm xúc.
đ. Các nhận định và đánh giá cho dưới đây (SGK) có đúng hay không? Tại sao?
Sách giáo khoa đưa ra ba nhận định và đánh giá, nhận định và đánh giá nào đúng, nhận định nào sai cần đọc kỹ, từ đó hiểu sâu hơn các thao tác lập luận, nghiên cứu, phân tích. , hướng dẫn.
– Các điều kiện kèm theo điều kiện để mệnh đề thứ nhất đúng phải đúng và phương pháp suy luận phải đúng trong diễn dịch. Tại thời điểm đó, quyết định được đưa ra sẽ là kết luận và không thể bị từ chối hoặc chứng minh.
– Câu thứ hai sai. Chừng nào mà quy nạp chưa bị suy giảm (bất kể chuỗi các sự kiện riêng lẻ) và mối quan hệ giữa tiền đề và trừu tượng vẫn chưa chắc chắn, thì việc xác nhận kết luận phải chờ bằng chứng thực tế.
– Nhận định thứ ba đúng, vì sau khi nghiên cứu, phân tích phải có quá trình tổng hợp, rồi mới thực hiện công việc xem xét, tìm hiểu, chẩn đoán một sự vật, hiện tượng lạ.
2. Hàm so sánh
MỘT. Dẫn ra những tấm gương cống hiến, hy sinh cho công cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã tổng kết trong bài viết Lòng yêu nước của nhân dân ta: “Những nghĩa cử cao đẹp đó, tuy khác nhau về công việc, nhưng đều giống nhau ở lòng nhiệt thành yêu nước”.
Tác giả sử dụng cái gì? Câu văn có nhấn mạnh vấn đề giống hay khác nhau không?
– Giáo viên sử dụng chức năng so sánh. So sánh tinh thần yêu nước của nhân dân ta xưa với tinh thần yêu nước của chúng ta ngày nay.
– Câu được viết nhằm mục đích nhấn mạnh vấn đề thống nhất.
b. Đoạn văn so sánh nhà Lý và nhà Lê trong Việt sử thông giám cương mục của Lê Văn Hưu (xem mục 2. b SGK trang 133) cũng có cùng mục tiêu nhấn mạnh sự khác biệt (hoặc tương đồng) như đoạn văn trên. Từ đó cho biết hàm so sánh có mấy loại chính?
– Đoạn văn của Lư Văn Hủ sử dụng chức năng so sánh để nhấn mạnh sự khác biệt, tương phản giữa Lại Thái Đô và Lư Tài Hãn ở hai khía cạnh: “phá nội, đánh giặc ngoài, cường quốc” và “ráng danh, đem phúc cho hậu thế, cho lòng người vui mừng “Tuân mệnh, dựng nước trường tồn”.
– Từ (a) và (b) suy ra: Thao tác so sánh bao gồm hai loại chính là so sánh nhằm nhận ra sự giống nhau và so sánh nhằm mục đích nhận ra sự khác biệt.
c) Có người nghi ngờ hiệu quả của phép so sánh vì “so sánh nào cũng khập khiễng”. Bạn có đồng ý với ý kiến đó không? Tại sao?
– Trong so sánh, khi chúng ta đòi hỏi người tiêu dùng của sự so sánh phải bằng hoặc khác nhau tuyệt đối, thì suy nghĩ “mọi so sánh đều khập khiễng” cũng có lý. Nhưng điều này không nên vì thiếu tự tin ở khía cạnh so sánh, vì so sánh sẽ giúp hiểu rõ hơn và sâu sắc hơn về đối tượng mục tiêu.
– Trong 4 câu SGK đưa ra, câu thứ 2 sai (“Các đối tượng người dùng so sánh phải hoàn toàn bằng nhau hoặc khác nhau hoàn toàn”). Các câu còn lại đều đúng. Đầu tiên, để có thể so sánh được, các đối tượng tiêu dùng phải có mối liên hệ với nhau theo một cách nào đó. Việc so sánh cần dựa trên tiêu chí đơn giản, rõ ràng, có ý nghĩa so sánh với nội hàm của yếu tố (sự vật, hiện tượng lạ). Kết luận rút ra từ so sánh phải đúng, mới, lạ và bổ ích, nhận thức về các yếu tố (sự vật, hiện tượng lạ) phải rõ ràng, sâu sắc.