Thành Cát Tư Hãn – cái tên mà ai cũng biết là một vị tướng tài ba và sáng suốt của đất nước Mông Cổ – Trung Quốc xưa. Không chỉ Việt Nam mà cả thế giới đều biết đến và ngưỡng mộ. Ông là người sáng lập ra Đế chế Mông Cổ, các bộ tộc thống nhất vào năm 1206 ở Đông Bắc Á.
nhân loại
Lúc nhỏ tên đầy đủ là Thiết Mộc Chân. Sau khi trở thành Đại Hãn của Mông Cổ, ông lấy hiệu là Thành Cát Tư Hãn.
Cha của ông là Da Tốc Cái, từng là thủ lĩnh của bộ tộc Kiyad ở Mông Cổ. Ông là một người cha rất chín chắn, dũng cảm và hết lòng vì con cái. Chính sự dũng cảm và dũng cảm này đã tạo nên Thành Cát Tư Hãn Mông Cổ sau này.
Mẹ là Hà Ngạch Luân (Thái hậu Nguyệt Luân) Oát Lạc Hốt Nội Thị. Nàng là đệ nhất nữ nhân, chính thất của Đa Tốc Cái. Họ sinh được 5 người con (4 trai, 1 gái). Tiết Mộc Chân là con trưởng. Tiếp đến là Cáp Tát Nhĩ, Hợp Xích Ôn, Thiết Mộc Cách và cuối cùng là Tiết Mộc Luân.
Thành Cát Tư Hãn sinh năm 1162 (cũng có tài liệu viết là 1155) và mất năm 1227 tại Lục Bàn Sơn, Trung Quốc. Ông hưởng thọ 65 tuổi, là một trong những minh quân lừng lẫy nhất lịch sử thế giới lúc bấy giờ. Người Mông Cổ rất tôn trọng anh ta khi anh ta được nhắc đến.
Tháng 10 năm 1266, Hốt Tất Liệt – người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên, đồng thời là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, đã tôn ông lên làm Nguyên Thái Tổ, hiệu của Thành Vũ Hoàng đế đã khuất. Sau đó, vào năm 1309, Nguyên Vũ Tông trở thành Pháp Thiên Khai Văn Thánh Vũ Hoàng đế. Sau đây là tiểu sử của Thành Cát Tư Hãn.

Thời thơ ấu
Cuộc đời Thành Cát Tư Hãn từ khi còn trẻ là cậu bé Thiết Mộc Chân ngày đêm cưỡi ngựa săn bắn. Năm 9 tuổi, cô kết hôn với Bột Nhiễm theo sự sắp đặt của bố chồng là Dực Tiết Thiện – thủ lĩnh bộ tộc Hoàng Cát Lạt, và ở vậy đến năm 12 tuổi thì được sự cho phép của cha. Sau khi Đa Tốc Cái trúng độc chết trên đường trở về, Thiết Mộc Chân buộc phải về chịu tang cha và đảm nhận vai trò thủ lĩnh.
Nhưng cuộc đời của một anh hùng không hề dễ dàng. Những người lớn tuổi không trao quyền lãnh đạo cho một đứa trẻ chỉ mới 12 tuổi, vì vậy họ đã chọn Thap Huttai làm thủ lĩnh mới. Đó cũng là khởi đầu cho mấy ngày khổ luyện của thiếu niên Thiết Mộc Chân. Thập Nhiệt Đại vô ơn bạc nghĩa, không nể tình cũ nên trở mặt đuổi cả nhà Thiết Mộc Chân ra khỏi bộ tộc.
Kể từ đó, anh và gia đình trở nên nghèo khó bằng nghề đánh cá, hái lượm và săn bắn. Cuộc sống gian khổ này đã rèn luyện cho Thiết Mộc Chân sự gan dạ, tài giỏi cưỡi ngựa săn bắn.
Cho đến khi Taharhottai 15 tuổi, anh ấy lo lắng về việc trưởng thành và trở thành nhà lãnh đạo một lần nữa. Hắn sai người tiêu diệt gia tộc Thiết Mộc Chân. Thật không may, lúc đó cả gia đình đang đi săn trong rừng. Thiết Mộc Chân không chút do dự để hai mẹ con chạy sang một bên, còn bản thân thì chạy sang bên kia. Vì điều này, gia đình anh đã được cứu và sống sót an toàn.
Tuy nhiên, chính Thiết Mộc Chân đã bị bắt và giam giữ như một tù nhân. Chính quãng thời gian này đã dạy anh trở thành một người dũng cảm với tinh thần sắt đá. Tiết Mộc Chân biết dựa vào mối quan hệ giữa cha mình và những sĩ quan lớn tuổi vẫn trung thành với cha mình, để nhờ họ giúp mình trốn thoát.
Sau khi vượt ngục thành công, Tiết Mộc Chân được đoàn tụ với gia đình, từ đó gia đình anh chuyển đến vùng núi khác để tránh tai mắt của tòa tháp Harhottai.
Năm 17 tuổi, bà về Hoàng Cát Lạt kết hôn với Bột Niệp Thiệp và sinh được 9 người con, trong đó có 4 người con trai: Trúc Xích, Bố Hợp Đài, Oa Khất Đài (người sau nối ngôi Thành Cát Tư Hãn), Đà Lôi. và 5 cô con gái.
Hiệp ước Mông Cổ
Mông Cổ vào cuối những năm 1200, đầu những năm 1300 bị chia cắt giữa các bộ tộc Nại Man, Miệt Nhĩ, Thất Đạt, Kỳ Nham, Uyghur và Khắc Liệt nên các bộ tộc này đánh nhau. Chiến công của Thành Cát Tư Hãn được nhiều sử sách lưu giữ cẩn thận cho đến ngày nay.
Thiết Mộc Chân hợp tác với người bạn cũ của cha mình là Tsui Li (thủ lĩnh tộc Kelie). Anh là người đã giúp Thiết Mộc Chân cứu Bạc Tiệp khi anh bị Mị Nhi bắt.

Khi đó anh đi theo Trác Mộc Hợp (thủ lĩnh bộ tộc Trát Đạt Lan) – người mà Trát Ly bảo anh tham gia đánh bại quân Mierres để cứu Bố Thiệp.
Trong thời gian dưới trướng Trác Mộc Hợp, Thiết Mộc Chân đã thể hiện được tài võ nghệ và khả năng lãnh đạo nên Trác Mộc Hợp sinh lòng nghi ngờ và trục xuất gia đình anh ra khỏi bộ tộc.
Từ đó, Thiết Mộc Chân bắt đầu gây dựng thực lực, gây dựng tên tuổi, nhiều nhân tài nối gót, góp công lớn cho các tác phẩm sau này như Tộc Bất Đài, Gia Lạc Miệt. sau đó).
Năm 1189, Tiemuzhen được phong làm Khan bởi những người cai trị Mông Cổ. Chính vì vậy Trác Mộc Hợp đem 3 vạn binh đánh Thiết Mộc Chân (chỉ có hơn 1 vạn binh) nên quân của Thiết Mộc Chân thất bại.
Năm 1190, Thiết Mộc Chân kết liên minh với bè lũ sứ thần của cha mình năm xưa.
Năm 1197, ông cùng cha nuôi Thoát Ly liên thủ với nhà Kim đánh bộ tộc Thất Đạt. Vì điều này, Kim Chương Tông đã phản bội các quan văn võ, giúp nhà họ Kim thống trị Mông Cổ.
Đây là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Thành Cát Tư Hãn, danh tiếng của ông đã lan đến tận vùng núi Mông Cổ và nhiều bộ lạc nhỏ đã quy phục ông.
Ông có một cách cai trị khác với truyền thống của Mông Cổ là chỉ giao quyền cho những người có năng lực nhất, thay vì dựa trên sự hợp tác. Ông yêu cầu các tướng lĩnh trả lại chiến lợi phẩm sau mỗi trận chiến và hứa ban thưởng cho họ nếu họ hoàn toàn phục tùng.
Bất cứ khi nào anh ta chinh phục được một bộ lạc, anh ta sẽ đặt bộ tộc đó dưới sự kiểm soát của mình và bảo vệ nó. Ngoài ra, mẹ cô cũng nhận những đứa trẻ mồ côi từ những bộ lạc đó để nuôi nấng chúng.
Năm 1201, các bộ lạc gặp Thiết Mộc Chân và tấn công Trác Mộc Hợp, nhưng bị ông và Thống Lý đánh bại, buộc Trác Mộc Hợp phải đầu hàng ông. Trong trận chiến này, ông bị thương nhưng không chết, lúc này ông bắt được một chỉ huy quân sự tài giỏi (đã giúp rất nhiều cho việc chinh phục Tây Âu sau này) bắn ông bằng tên và đặt tên là Triết Biệt.
Một cuộc chiến nổ ra vào năm 1203 giữa Thiết Mộc Chân và Thống Lý xin gả con gái của Thoát Ly cho Trực Chỉ, để giúp đỡ cả hai bên, nhưng không thành công. Sau đó, ông lại bị từ chối khi Thiết Mộc Chân muốn gả con gái mình cho cháu trai của Thống Lý. Điều này là thiếu tôn trọng đối với văn hóa Mông Cổ.
Cuối cùng Thiết Mộc Chân lại thắng, Thôi Ly thất bại vội chạy đến Nại Man bị quân của Nại Man giết chết.
Đến cuối năm 1204, chỉ còn một bộ tộc cần thống nhất Tiết Mộc Chân, đó là Nại Man. Đây cũng là nơi Trác Mộc Hợp và tàn quân đang lánh nạn. Tiemuzhen và quân đội của ông đã đánh bại Zhuo Muhe và trở thành thủ lĩnh duy nhất của quân Mông Cổ.

Trong trận chiến này, Thiết Mộc Chân đã chiêu mộ được cao thủ dưới trướng Thái Dương Hãn, thủ lĩnh bộ tộc Nại Man. Ông là người sau này đã tạo ra các tác phẩm của người Mông Cổ và bắt đầu dạy cho gia đình Tiemuzhen và các quan chức của ông.
Nói đến Trác Mộc Hợp trốn khỏi Nại Man nhưng bị thuộc hạ bắt được giao cho Thiết Mộc Chân. Ông nhớ đến tình bạn cũ nên không bị giết và khuyên Trác Mộc Hợp chấm dứt hiềm khích, cùng nhau xây dựng Mông Cổ hùng mạnh.
Tuy nhiên, Trác Mộc Hợp xấu hổ không đồng ý, muốn chết nên Thiết Mộc Chân dù đau đớn cũng phải tuân theo.
Đến năm 1206, sau khi thống nhất toàn bộ Mông Cổ. Tiết Mộc Chân ngồi lên ngôi Đại Hãn. Ông thành lập Đại Mông Cổ Đế Quốc, lấy thời gọi là CANH CÁT TỬ HÂN.
Thành lập một đế chế và mở rộng lãnh thổ
Thành Cát Tư Hãn lúc này có hơn 1 triệu người với 100.000 binh lính. Ông chia đều cho các tướng và em trai mình để kiểm soát và cải cách quân đội, cũng như truyền bá việc dạy bảng chữ cái Mông Cổ cho mọi người dân.
Ông là người ban hành luật Yassa và yêu cầu tất cả người dân trong vùng tuân theo.
Ông cũng là người thiết lập nhiều chính sách giúp đỡ đất nước Mông Cổ đang có chiến tranh, chính trị và văn hóa.

Năm 1207, ông dẫn quân đánh Tây Hạ
Năm 1211, chinh phục nước Kim
Năm 1213, với tài thao lược, ông đã đánh bại nhà Kim đến Vạn Lý Trường Thành với chiến thắng lịch sử khi 100.000 quân Mông Cổ đánh bại 450.000 quân Kim, khiến cả thế giới phải trải qua hơn 100 năm nhà Kim sụp đổ.
Năm 1214-1215, ông dẫn quân tiến đánh vào giữa triều Kim, thu được một lượng lớn vàng bạc.
Thành Cát Tư Hãn liền sai Triết Biệt đem 20 vạn tinh binh đánh Khuất Xử Luật. Ông đã bị đánh bại và định cư ở Mông Cổ. Đế chế Mông Cổ trải rộng về phía tây và giáp với Đế chế Khwarezm, một quốc gia Hồi giáo trải dài từ Biển Caspi ở phía tây và Vịnh Ba Tư và Biển Ả Rập ở phía nam.
Năm 1218, Thành Cát Tư Hãn gửi 200.000 binh lính đến Otrar, một tỉnh phía đông của Khwarezm, để trả thù cho việc Otrar giết tất cả các sứ giả.
Ông nhanh chóng chiến thắng và chinh phục Otrar, gia tăng ảnh hưởng của Mông Cổ trong thế giới Hồi giáo
Năm 1220 Vương quốc Khwarezm sụp đổ. Thành Cát Tư Hãn khủng bố những vùng đất ông đi qua.
Thành Cát Tư Hãn sau đó dẫn đội quân vĩ đại của mình qua Afghanistan và miền bắc Ấn Độ. Triết Biệt và Tốc Bất Đài chỉ huy các cánh quân còn lại qua Kavkaz và Nga, tấn công Armenia và Azerbaijan, tiêu diệt Gruzia, chiếm quân đội Caffa và thương mại Cộng hòa Genoa, áp sát Biển Đen.
Không có sức mạnh của người Mông Cổ và sự nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn đã rất mạnh mẽ
Năm 1223, quân của Thành Cát Tư Hãn tiếp tục càn quét nước Nga và chỉ dừng lại khi chiếm được nước Volga Bulgars, vốn đã phá hủy sông Samara.
Năm 1237, Batu là con trai của Trucchi, người đã tấn công và chinh phục Kiev và Volga Bulgar của Nga vào năm 1240.
Trận đấu cuối cùng
Sau khi Mộc Hoa Lê chết vì tức giận vì Tây Hạ giúp nhà Kim đánh quân Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn thề sẽ tiêu diệt đế chế. Đây là thời điểm ông chọn người con trai thứ ba là Oa Kwottai làm người kế vị.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn dẫn 180.000 quân tấn công Tây Hạ. Quân của ông chiếm được các thành Hắc Thủy, Cám Châu, Tô Châu, phủ Tây Lương, vây Linh Châu, đánh tan quân Tây Hạ.
Năm 1227, quân của ông tấn công kinh thành Ngân Xuyên (nay thuộc Ninh Hạ), chiếm Lâm Thao, tỉnh Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày nay), Tân Đô, Đức Thuận và bao vây hoàng tộc Tây Hạ. tại Trung Hưng Thành.
Ngày 18 tháng 8 năm 1227, Thành Cát Tư Hãn qua đời tại Lục Bàn Sơn, huyện Thanh Thủy, Trung Quốc.
Kết thúc cuộc đời của nhà ngoại giao tài ba, sáng tạo và hàng đầu trong lịch sử nhân loại.
Có tài liệu cho rằng ông mất do bị ngã ngựa, tuổi già sức yếu và đau buồn trước cái chết của người con cả Trúc Chi. Nhưng cũng có tài liệu nói rằng ông đã bị đảng của Xiang giết chết.
Trong mọi trường hợp, tình yêu của người dân Mông Cổ và thế giới dành cho Thành Cát Tư Hãn là sự ngưỡng mộ và tôn trọng tài lãnh đạo quân sự của ông.
Nguồn:
Trang web Holaai.org – Sẵn sàng chinh phục thế giới.